VIỆT NAM CỘNG HÒA:
10 NGÀY CUỐI CÙNG (1)

Trần Đông Phong (Trích trong: "Trần Văn Hương, Kẻ Sĩ Cuối Cùng" )


          Những diễn biến đưa đến cuộc tổng tấn công của Cộng sản Bắc Việt tại Miền Nam Việt Nam từ tháng ba năm 1975 cho đến ngày Dương Văn Minh ra lệnh đầu hàng thật ra đã khởi đầu từ Washington vào mùa thu năm 1974, từ Mạc Tư Khoa vào cuối năm 1974, tại Hà Nội và tại Sài Gòn vào tháng 12 năm đó. Sau khi ký kết Hiệp Định Paris vào cuối tháng 1 năm 1973, Hà Nội đã nhiều lần xin Bắc Kinh và Mạc Tư Khoa gia tăng viện trợ quân sự nhưng đã bị cả hai quốc gia Cộng sản đàn anh bác bỏ. Tuy nhiên một năm rưỡi sau đó thì tình hình lại hoàn toàn thay đổi, thuận lợi nhiều hơn cho Bắc Việt, chỉ vì một sự kiện chẳng có dính dáng gì đến Việt Nam mà chỉ có liên hệ đến người Nga gốc Do Thái. Trước khi trở thành ngoại trưởng, trong thời gian còn giữ chức Phụ Tá Về An Ninh Quốc Gia cho Tổng Thống Nixon, Tiến sĩ Henry Kissinger đã mở nhiều cuộc thương thuyết nhằm giảm bớt căng thẳng (detente) trong bang giao Mỹ - Liên Xô và cũng nhằm lấy cảm tình với Liên Xô để nhờ đó đại cường Cộng sản này gây áp lực với Hà Nội tiến đến việc ký kết hiệp ước mang lại hòa bình (cho người Mỹ) tại Việt Nam, ông đã hứa hẹn với các nhà lãnh đạo Nga Xô rằng Hoa Kỳ sẽ cho Liên Xô được hưởng quy chế tối-huệ-quốc (most-favored nation). Với quy chế này, Liên Xô có thể mở rộng giao thương với Tây phương, một mục tiêu mà Nga Xô đang cấp bách tìm cách thực hiện để cứu vãn nền kinh tế xã hội chủ nghĩa đang kiệt quệ. Để đáp lại thiện chí này, lãnh tụ Liên Xô Brezhnev đã áp lực với Hà Nội thôi không đòi hỏi phải loại bỏ Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu như là một trong những điều kiện căn bản để ký kết hiệp định Paris. Sau đó, mặc dù Cộng Sản Bắc Việt đã nhiều lần khẩn thiết yêu cầu, Liên Xô đã từ khước không chịu gia tăng viện trợ quân sự vì không muốn làm mất lòng Hoa Kỳ, do đó chỉ viện trợ về kinh tế cho Hà Nội mà thôi. Vào khoảng cuối năm 1974, Bộ Tổng Tư Lệnh Quân Đội Nhân Dân Bắc Việt đã soạn thảo một kế hoạch quân sự trong năm 1975, theo kế hoạch này thì các lực lượng Cộng sản sẽ gia tăng đánh phá tại các chiến trường B2, B3 và B4 để chiếm các tiền đồn, các quận lỵ hẻo lánh, cô lập các lực lượng của VNCH rồi sang năm 1976, khi tại Hoa Kỳ đang diễn ra cuộc bầu cử tổng thống vào tháng 11 thì Cộng sản sẽ mở các cuộc tổng tấn công để chiếm trọn Miền Nam. Kế hoạch này đã được các cấp lãnh đạo của Đảng như Lê Duẫn, Lê Đức Thọ, Phạm Văn Đồng và Quân Ủy Trung Ương chấp thuận trên nguyên tắc, tuy nhiên giới lãnh đạo Đảng muốn đưa dự án kế hoạch này ra thảo luận trước phiên họp Khoáng Đại của Ban Chấp hành Trung Ương Đảng vào trung tuần tháng 12 năm 1974 để đại hội phê chuẩn. Tháng 11 năm 1974, hai đại diện của Trung Ương Cục Miền Nam là Phạm Hùng, Ủy viên Bộ Chính trị Đảng Lao Động Việt Nam và Trung Tướng Trần Văn Trà, Tư Lệnh Quân sự tại Miền Nam đã được lệnh ra Hà Nội để phối hợp với các lãnh tụ quân sự Bắc Việt hoạch định kế hoạch tấn công tại miền Nam trong năm 1975. Trong những phiên họp này, đại diện của Trung Ương Cục Miền Nam đã đưa ra đề nghị tấn công và chiếm đóng tỉnh Phước Long nhắm vào hai mục đích. Về quân sự, khi tấn công vào Phước Long thì Việt Cộng sẽ chiếm được 5 tiền đồn quan trọng, sẽ thiết lập được con đường chiến lược cho các chiến xa, cơ giới, trọng pháo, xe chở nhiên liệu và binh sĩ từ vùng phi quân sự di chuyển thẳng xuống miền Đông Nam phần một cách dễ dàng. Cuộc tấn công này sẽ cầm chân các đơn vị tổng trừ bị của VNCH và do đó sẽ không còn đủ quân để tiếp viện cho những chiến trường khác. Về phương diện chính trị, nếu Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu để mất tỉnh Phước Long thì ông sẽ bị mất uy tín rất nhiều tại Miền Nam và quan trọng hơn cả là để xem Hoa Kỳ sẽ phản ứng như thế nào khi Cộng sản lần đầu tiên chiếm được một tỉnh tại miền Nam Việt Nam, nhất là sau khi Tổng thống Richard Nixon phải từ chức vì vụ Watergate và Tổng Thống Gerald Ford lên thay thế. *Từ Mạc Tư Khoa Trong khi hai đại diện của Trung Ương Cục Miền Nam đang vận động cho kế hoạch tấn công tỉnh Phước Long trong tháng 12 năm 1974 thì ngày 18 tháng 12 năm đó, phiên họp khoáng đại kỳ thứ 23 của Ủy Ban Trung Ương Đảng Lao Động Việt Nam đã được khai mạc để thảo luận về kế hoạch tấn công Miền Nam trong năm 1975. Một nhân vật bất ngờ xuất hiện trong phiên họp khoáng đại này là Đại Tướng Victor Kulikov, Thứ Trưởng Bộ Quốc Phòng kiêm Tư Lệnh Hồng Quân Liên Bang Xô Viết mới từ Mạc Tư Khoa đến Hà Nội. Vào giữa năm 1974, sau khi lên làm ngoại trưởng, ông Kissinger đã thực hiện lời hứa hẹn với Nga Xô hồi năm 1972, đã vận động với Quốc Hội Mỹ cho Liên Xô được hưởng quy chế "tối huệ quốc" và dự luật này đã được Hạ Viện thông qua. Nhưng khi bản dự luật này được đưa lên Thượng Viện vào mùa Thu năm 1974 thì Thượng Nghị Sĩ Henry Jackson thuộc Đảng Dân Chủ tiểu bang Washington, một nghị sĩ thuộc phe "diều hâu", tức là phe ủng hộ VNCH, nhưng ông này lại không ưa Tiến sĩ Henry Kissinger, ông là một trong những nghị sĩ đang hy vọng ra ứng cử tổng thống vào năm 1976 cho nên vì muốn chiếm được cảm tình của cử tri gốc Do Thái, đã kèm vào dự luật này một tu chánh án liên kết việc thông qua dự luật với điều kiện Liên Xô phải cởi mở hơn trong việc cho phép công dân Liên Xô gốc Do Thái được di dân sang Tây phương một cách dễ dãi hơn. Dự luật này về sau được gọi là tu chính án Vanix-Jackson và trong thập niên 1990, cộng đồng người Việt hải ngoại đã vận động với quốc hội Mỹ để áp dụng tu chính án này trong việc ký kết thương ước giữa Hoa Kỳ với Công sản Việt Nam. Cũng trong thời gian đó, nhiều nghị sĩ khác đã kèm theo nhiều tu chính khác giới hạn việc chấp thuận cho Liên Xô vay nhiều món nợ khác nếu không dành sự dễ dãi cho người Nga trong việc di dân sang Do Thái. Mạc Tư Khoa phản đối và Ngoại Trưởng Kissinger đã nhiều lần cảnh cáo quốc hội rằng thêm vào những tu chính như vậy sẽ bị Liên Xô xem là can thiệp vào nội tình của quốc gia họ và sẽ không có lợi cho Hoa Kỳ. Tuy nhiên cho đến tháng 12 năm 1974 thì quốc hội cũng không nhượng bộ và dự luật về thương mại kèm theo những tu chính đã được thông qua. Dù rằng cho đến ngày 3 tháng 1 năm 1975 bản dự luật này mới được Tổng Thống Gerald Ford ban hành, nhưng về phía Liên Xô thì họ biểu lộ cho thấy họ không thể chấp nhận được việc các nghị sĩ Hoa Kỳ đã can thiệp vào việc nội chính của Liên Bang Xô Viết, do đó Liên Xô đã nổi giận và tìm cách trả đũa bằng cách "phá Hoa Kỳ tại Việt Nam. Liên Xô phản đối mạnh mẽ đạo luật này, họ nói rằng sự "liên kết" (linkage) giữa thương mại với vấn đề di dân của người Do Thái đã vi phạm những sự hứa hẹn với Tiến sĩ Kissinger. Hãng thông tấn Tass của Liên Xô lên tiếng cảnh cáo rằng người Nga sẽ có sự "trả đũa", họ không nói rõ trả đũa như thế nào, nhưng một tuần sau thì đại sứ Liên Xô tại Washington đã bị triệu hồi về nước để "tham khảo", đồng thời Tướng Viktor Kulikov được Điện Cẩm Linh phái sang Bắc Việt. Tướng Viktor Kulikov đến Hà Nội vào tháng 12 năm 1974, trên danh nghĩa với tư cách là đại diện cho Hồng Quân Xô Viết tại lễ Kỷ Niệm 30 Năm Ngày Thành Lập Quân Đội Nhân Dân Việt Nam, tuy nhiên sau đó đã tham dự Phiên họp Khoáng đại Kỳ thứ 23 của Ban Chấp Hành Trung Ương Đảng Lao Động Việt Nam. Căn cứ vào sự phân tích của tình báo KGB về tình hình chính trị tại Hoa Kỳ sau khi Tổng Thống Richard Nixon bị áp lực phải từ chức, Tướng Kulikov nói với các lãnh đạo đảng và quân đội Bắc Việt rằng Quốc Hội Hoa Kỳ sẽ không chấp thuận cấp thêm viện trợ kinh tế cũng như là quân sự cho miền Nam Việt Nam nữa, như vậy thì đây là lúc thuận lợi nhất để mở các cuộc tấn công đại quy mô tại Miền Nam và Liên Xô cam kết sẽ ủng hộ kế hoạch tấn công này bằng cách tích cực gia tăng viện trợ quân sự cho Bắc Việt. *Từ Washington Thực ra thì chẳng cần phải nhờ tới cơ quan tình báo KGB mới biết được chiều hướng chính trị đang trên đà giải kết tức là bỏ rơi Việt Nam Cộng Hòa tại Hoa Kỳ. Trong bộ sách "The Vietnam Experience", cuốn "The fall Of The South", các tác giả bộ sách này đã nói rằng: "Các cấp lãnh đạo Cộng sản chỉ cần đọc báo chí Tây Phương cũng đủ biết rõ về sự suy giảm trong vấn đề viện trợ cho Miền Nam Việt Nam, cả về số tiền viện trợ cũng như là thăm dò dư luận. Ngày 22 tháng 5 năm 1974, Hạ Viện biểu quyết không được tăng con số tiền viện trợ quân sự cho tài khóa 1974 quá mức 1,126 triệu mỹ kim dù rằng Ủy Ban Quân Vụ Hạ Viện đã đề nghị 1.400 triệu. Về tài khóa 1975 bắt đầu từ ngày 1 tháng 7 năm 1974 đến ngày 30 tháng 6 năm 1975 thì lại càng tệ hại hơn vì vào hai ngày 22 và 23 tháng 9 năm 1975, cả Hạ Viện và Thượng Viện Hoa Kỳ đã biểu quyết chỉ cấp cho VNCH 700 triệu mỹ kim mà thôi vì công luận Hoa Kỳ không muốn nghe nói đến chiến tranh Việt Nam nữa. Sự sụt giảm về viện trợ này đã đưa đến ảnh hưởng vô cùng sâu đậm cho Quân Lực VNCH vì nếu tính thêm vào sự mất giá của đồng mỹ kim và giá nhiên liệu cũng như là tất cả các hàng hóa khác trên thị trường thế giới gia tăng sau cuộc khủng hoảng nhiên liệu vào năm 1973 thì con con số viện trợ khiêm tốn này chẳng còn bao nhiêu." *[1]*[2]

         Sự hiện diện của Tướng Viktor Kulikov không tránh được sự quan sát của các cơ quan tình báo của Hoa Kỳ tại Việt Nam và ông Wolfgang Lehmann, Xử lý Thường Vụ Đại sứ Hoa Kỳ tại Sài Gòn đã đánh một công điện "mật" về Hoa Thịnh Đốn tường trình về vụ này. Ngoài việc báo cáo sự hiện diện của Tướng Viktor Kulikov tại Hà Nội mà ông Lehmann nói rằng ông Tướng Hồng Quân Xô Viết này không phải sang Hà Nội để chúc mừng Giáng Sinh, bức điện văn của ông Lehmann còn lưu ý và nhắc nhở một sự trùng hợp tương tự về sự hiện diện của Nicolai Podgorny, Chủ Tịch Nhà Nước và Pavel Batitsky, Thứ Trưởng Quốc Phòng Liên Xô tại Hà Nội vào năm 1972 và sau đó Liên Xô đã gia tăng viện trợ quân sự cho Hà Nội để mở các cuộc tấn công vào Mùa Hè Đỏ Lửa 1972. Tại Hoa Thịnh Đốn, không có ai chú ý đến bức điện văn này của viên Xử Lý Thường Vụ Đại sứ Hoa Kỳ tại Miền Nam Việt Nam gửi về từ Sài Gòn. Ngoài điện văn của ông Lehmann, Trưởng Văn phòng CIA ở Sài Gòn và Frank Snepp cũng gửi một điện văn báo động về việc này với CIA ở Washington. Frank Snepp cho biết điện văn này lưu ý việc các nhân vật trọng yếu Liên Xô viếng thăm Hà Nội vào cuối năm 1971 đã đưa đến việc Cộng Sản mở cuộc tổng tấn công vào mùa Hè năm 1972 và báo động với Washington rằng sự viếng thăm này cũng có thể đưa đến những diễn tiến tương tự như hồi 1972. Tuy nhiên, vì lúc đó cả Sài Gòn lẫn Washington đều không biết rằng Hà Nội đang triệu tập Đại Hội Ban Chấp Hành Trung Ương Đảng Lao Động Việt Nam kỳ thứ 23 cho nên cả Bộ Ngoại giao Mỹ lẫn CIA ở Washington đều cho rằng việc này chỉ là một sự "thông lệ", chẳng có gì đáng quan trọng. Sau khi Kulikov trở về Mạc Tư Khoa, Liên Xô đã thực hiện lời hứa của Kulikov và viện trợ quân sự cho Bắc Việt đã gia tăng gấp 4 lần trong những tháng giêng, hai và ba năm 1975. Không những chỉ gia tăng viện trợ vũ khí đạn dược, Liên Xô còn cung cấp những tin tức tình báo bằng vệ tinh cho quân đội Cộng sản tại miền Nam. Ngày 16 tháng 4 năm 1975, Liên Xô phóng vệ tinh từ căn cứ Plessetsk với góc độ 65 độ và 8 ngày sau đó lại phóng thêm một vệ tinh thứ hai với góc độ 81 độ và cả hai vệ tinh này đã quan sát được mọi hoạt động trên toàn cõi Việt Nam. Đây là loại vệ tinh mới nhất của Liên Xô có đủ khả năng chụp được những bức không ảnh với hình ảnh những xe cộ và chiến xa rất rõ ràng. Từ Mạc Tư Khoa, những bức không ảnh này được chuyển sang Hà Nội trong vòng vài tiếng đồng hồ sau đó và Hà Nội lại chuyển vào Nam cho Tướng Văn Tiến Dũng nhờ đó Cộng sản Bắc Việt biết rõ đang phải đối đầu với quân số và đơn vị ở cấp nào. Mấy tháng sau ngày Cộng sản Bắc Việt thôn tính toàn bộ Miền Nam thì chính phủ Hoa Kỳ mới biết được rằng chính Liên Xô đã tích cực khuyến khích Bắc Việt mở cuộc tổng tấn công dứt điểm tại Miền Nam, Liên Xô đã cố vấn cho Hà Nội rằng vì quốc hội Mỹ nhất quyết không viện trợ thêm về kinh tế cũng như là quân sự cho VNCH, như vậy nếu Hà Nội mở những cuộc tổng tấn công Miền Nam thì hy vọng thắng lợi sẽ chắc chắn hơn bao giờ hết. Lúc đó thì mọi sự đã quá trễ rồi! *Từ Dinh Độc Lập, Sài Gòn Chỉ cách mấy ngày sau khi Tướng Kulikov cam kết Liên Xô sẽ gia tăng viện trợ quân sự cho Bắc Việt, trong hai ngày 9 và 10 tháng 12 năm 1974, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu đã triệu tập một cuộc họp với các cấp lãnh đạo quân đội của VNCH tại Dinh Độc Lập nhằm ước đoán về những cuộc tấn công của Cộng sản Bắc Việt tại Miền Nam vào mùa khô năm 1975. Trong phiên họp này, các nhà lãnh đạo quân sự miền Nam đã ước tính rằng Cộng sản Bắc Việt sẽ mở những cuộc tấn công trong vùng đồng bằng sông Cửu Long và miền Cao nguyên Trung Phần, tuy nhiên sẽ không có tầm mức đại quy mô như các cuộc tổng tấn công Tết Mậu Thân hồi năm 1968 và Mùa hè Đỏ Lửa 1972. Hội nghị quân sự này cũng ước tính rằng các lực lương quân sự của Cộng sản vẫn còn trong tình trạng yếu kém và chưa đủ khả năng để tấn công và chiếm giữ bất cứ một tỉnh hay thành phố lớn nào tại miền Nam Việt Nam. Trong vùng chung quanh thủ đô Sài Gòn, hội nghị này cho rằng Cộng sản sẽ mở các cuộc tấn công vào phía tây tỉnh Tây Ninh, gần biên giới Việt-Miên, vào khoảng thời gian trước hay là sau Tết tức là vào đầu tháng 2 năm 1975 và sẽ tiếp diễn cho đến khi mùa mưa bắt đầu vào khoảng tháng 6 năm đó. Bộ Tổng Tham Mưu Quân Lực VNCH cũng đã đi đến quyết định là sẽ không gia tăng phòng thủ vùng phía tây Quân khu II và bắt đầu thiết lập một lực lượng trừ bị chiến lược để phòng thủ vùng vòng đai Sài Gòn. Một điều mà Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu cũng như các nhà lãnh đạo quân sự của VNCH không hề hay biết là có một điệp viên của Cộng sản Bắc Việt hoặc là đã có mặt trong phòng họp, hoặc là đã đọc được biên bản của phiên họp này. Vào ngày 20 tháng 12 năm 1975, một bản phúc trình đầy đủ về phiên họp, về các sự thảo luận cũng như là các quyết định của các giới lãnh đạo quân sự miền Nam đã được chuyển đến tận tay giới lãnh đạo Bắc Việt cùng với Tướng Văn Tiến Dũng. Theo nhà báo Oliver Todd, "CIA của Mỹ ở Sài Gòn tin rằng trong số những người thân cận của Tổng Thống Thiệu, có một gián điệp cao cấp của Hà Nội . Người đó là ai? Trung Tướng Đặng Văn Quang? Phó Thủ Tướng Nguyễn Văn Hảo? Hay là một người nào khác?"*[3] Trong binh pháp, các tư lệnh chiến trường bao giờ cũng cố gắng tìm hiểu về các kế hoạch của đối phương trong khi che dấu, ngụy trang các kế hoạch hành quân của mình và vào cuối năm 1974, các nhà lãnh đạo quân sự Cộng sản Bắc Việt đã nắm được những yếu tố chiến lược có tính cách quyết định qua những tin tức tình báo về các buổi họp của các nhà lãnh đạo quân sự cao cấp tại Dinh Độc Lập trong bản phúc trình mà gián điệp Cộng sản đã gởi về Hà Nội. Nhờ những yếu tố mới này, Cộng sản Bắc Việt đã hoàn tất các kế hoạch tấn công cho năm 1975 mà trước đó vẫn chưa thành hình và chưa có quyết định tối hậu. *Kế hoạch đầu tiên là chấp thuận tấn công Phước Long. Đầu tháng 12 năm 1975, Cộng sản cho mở một vài cuộc tấn công gần Tây Ninh để nhử cho VNCH gởi các đơn vị trừ bị đến tăng cường cho tỉnh này. Ngày 13 tháng 12 năm 1974, Cộng sản đưa ba sư đoàn, lúc đó được gọi là "công trường" 3, 7 và 9 tấn công vào 5 mục tiêu trong tỉnh Phước Long được bảo vệ bởi một số đơn vị Địa Phương Quân và đã chiếm được hai tiền đồn Bố Đức và Đức Phong ngày hôm sau. Quận Đôn Luân do một tiểu đoàn Địa Phương Quân trấn giữ đã anh dũng đẩy lui được đợt tấn công đầu tiên, tuy nhiên quốc lộ 14 đã bị Cộng quân cắt đứt. Không quân VNCH phải vận tãi tiếp liệu và di tản thương binh cùng thường dân bằng phi cơ C-130, nhưng sau đó Cộng quân đã pháo kích vào phi trường Phước Bình, tiêu hủy một chiếc C-130, làm hư hỏng một chiếc khác và phi trường Phước Bình đã bị Cộng quân pháo kích hàng ngàn trái đạn do đó không còn sử dụng được. Ngày 26 tháng 12 năm 1974, sau 13 ngày anh dũng chống trả lại các cuộc tấn công biển người của Cộng sản, tiền đồn Đôn Luân bị thất thủ sau khi bị Cộng quân pháo kích hàng ngàn đạn pháo binh rồi sử dụng chiến xa và quân bộ chiến tràn ngập quận lỵ này. Sau khi Đôn Luân bị thất thủ, các đơn vị của Quân Lực VNVH đã chống trả các cuộc tấn công biển người của 3 sư đoàn Cộng quân với sự yểm trợ của chiến xa T-54 và đại pháo 130 ly trong hơn 10 ngày. Tuy nhiên sức người có hạn, vào nửa đêm hôm 6 tháng 1 năm đó, sau khi các vũ khí hạng nặng và trang bị truyền tin bị pháo và chiến xa của cộng sản phá hủy hoàn toàn, với biển người tấn công ào ạt, một số mấy trăm chiến sĩ thuộc các binh chủng Biệt Động Quân, Biệt Kích Dù, Địa Phương Quân và Nghĩa quân thuộc tỉnh Phước Long đã rút được vào những khu rừng rậm quanh tỉnh lỵ Phước Bình. Trong tổng số 5,400 chiến sĩ bảo vệ cho toàn tỉnh Phước Long, chỉ có 850 người đã thoát được và trở về trình diện Quân Đoàn III. Về phía Hoa Kỳ, không hề có một phản ứng nào, không có một phản kháng nào đối với việc Cộng sản Bắc Việt mở cuộc tấn công chiếm tỉnh Phước Long. Trong thời gian diễn ra trận Phước Long, Tổng Thống Gerald Ford có thể ra lệnh cho một lực lượng đặc nhiệm hải quân trong đó có hàng không mẫu hạm nguyên tử Enterprise đang hoạt động trong vùng Thái Bình Dương tiến vào vùng hải phận gần bờ biển Việt Nam nhưng thay vào đó, hạm đội này lại được lệnh đi thẳng sang Phi Châu. (còn tiếp)



Trở Về Trang Tài Liệu Không Quân Orlando