VIỆT NAM CỘNG HÒA:
10 NGÀY CUỐI CÙNG (3)

Trần Đông Phong (Trích trong: "Trần Văn Hương, Kẻ Sĩ Cuối Cùng" )


          Ngày thứ Hai, 21 tháng 4 năm 1975 Trưa ngày hôm sau, thứ hai 21 tháng 4, Tổng thống Thiệu mời Phó Tổng thống Trần Văn Hương và Đại tướng Trần Thiện Khiêm, cựu thủ tướng, đến Dinh Độc Lập và thông báo với họ rằng ông đã quyết định từ chức. Tổng thống Thiệu kể lại cho hai nhân vật này cuộc hội kiến với đại sứ Pháp và Hoa Kỳ ngày hôm trước và nhấn mạnh rằng cả hai ông đại sứ đều không chính thức khuyến cáo ông từ chức, tuy nhiên vì tình hình quân sự đã trở nên vô vọng và ông cảm thấy rằng ông không còn có thể phục vụ đất nước hữu hiệu được nữa cho nên ông phải từ chức. Tổng thống Thiệu nói với Cụ Trần Văn Hương và Đại tướng Trần Thiện Khiêm rằng ông muốn bảo tồn tính cách hợp hiến hợp pháp của chế độ VNCH và do đó ông yêu cầu Phó Tổng thống Trần Văn Hương nhận lãnh chức vụ Tổng thống VNCH để cứu vãn tình thế. Tuy nhiên, trong một cuộc tiếp xúc qua điện thoại tại San Jose, cựu Thủ tướng Nguyễn Bá Cẩn đã cho người viết biết rằng trong phiên họp tại Dinh Độc Lập sáng ngày 21/04/75, chỉ có ba người đó là TT Nguyễn Văn Thiệu, Phó Tổng Thống Trần Văn Hương và ông Nguyễn Bá Cẩn, Thủ Tướng Chính Phủ. Ông Thiệu ngồi giữa, PTT Hương ngồi bên phải và ông Cẩn ngồi bên trái không hề có cựu thủ tướng Trần Thiện Khiêm như trong các tài liệu khác đã nói. Theo ông Cẩn thì trong phiên họp này, TT Thiệu loan báo cho Cụ Hương và ông biết rằng ông đã quyết định từ chức tổng thống VNCH và yêu cầu Phó Tổng Thống Trần Văn Hương lên thay thế ông theo đúng tinh thần của Hiến Pháp 1967. Cựu Thủ tướng Nguyễn Bá Cẩn tiết lộ với người viết là có nhiều người viết về giai đoạn này nhưng có nhiều chỗ không đúng với sự thật, do đó ông đang viết một cuốn hồi ký nói rõ về những ngày tháng 4 năm 1975 để cho các thế hệ mai sau có thêm tài liệu. (Người viết xin cảm ơn ông Nguyễn Bá Cẩn đã dành cho người viết cuộc tiếp xúc ngày 05/06/02 và hy vọng rằng chúng ta sẽ được biết thêm nhiều điều mới lạ khi ông xuất bản cuốn hồi ký này) *[1]. Frank Snepp, nhân viên CIA và cũng là tác giả cuốn Decent Interval tiết lộ rằng khi ông Thiệu nói chuyện với Phó Tổng thống Trần Văn Hương và Đại tướng Trần Thiện Khiêm tại Dinh Độc Lập thì bộ phận nghe lén của CIA ở tòa đại sứ Mỹ nghe hết không sót một lời nào. Trùm CIA tại Sài gòn là Thomas Polgar sau đó đã ra lệnh cho phụ tá của y là Thiếu tướng Charles Timmes đến gặp Đại tướng Dương Văn Minh ngay chiều hôm đó và hỏi thẳng ông Minh rằng nếu người Mỹ có cách loại ông Hương ra khỏi ghế tổng thống thì ông Minh có sẳn lòng đảm nhận chức vụ này để điều đình với Việt Cộng hay không? Đại tướng Minh gật đầu nhận lời, ông bày tỏ sự tin tưởng rằng ông có thể thuyết phục được "phe bên kia" và ông nói với Tướng Timmes rằng ông cần gởi ngay một đai diện của ông sang Paris để thương thuyết ngay với phe Cộng sản. Nghe ông Minh nói như vậy, tướng Timmes liền mở cặp lấy ngay một ngàn đô la tiền mặt trao cho ông Minh để mua vé máy bay cho người này. Frank Snepp chú thích thêm là ông Minh không hề gởi người nào sang Paris, không dùng đến số tiền này và cũng không có trả lại cho người Mỹ. Frank Snepp cũng cho biết thêm là Đại sứ Martin không hề hay biết gì về việc CIA cho người tiếp xúc với Dương Văn Minh trước khi ông Thiệu từ chức.*[9]
          Chiều hôm đó, Tổng thống Thiệu triệu tập Hội Đồng An Ninh Quốc Gia gồm có Phó Tổng thống Trần Văn Hương, Thủ tướng Nguyễn Bá Cẩn, Đại tướng Cao Văn Viên, Tổng Tham Mưu Trưởng QLVNCH, Thiếu Tướng Nguyễn Khắc Bình, Tư Lệnh Cảnh Sát Quốc Gia và Trung Tướng Đặng Văn Quang, Phụ tá An Ninh, ngoài ra còn có thêm sự hiện diện của Trung tướng Nguyễn Văn Toàn, Tư Lệnh Quân Đoàn 3 và Trung Tướng Nguyễn Văn Minh, Tư lệnh Biệt Khu Thủ Đô, hai nhân vật này không phải là hội viên của HĐANQG. Trong phiên họp này, Tổng thống Thiệu tuyên bố rằng ông sẽ từ chức và ông sẽ loan báo việc này với quốc dân đồng bào vào tối hôm đó. Theo cựu Trung Tướng Trần Văn Đôn, lúc đó đang giữ chức Tổng Trưởng Quốc Phòng trong chính phủ Nguyễn Bá Cẩn và không được mời dự phiên họp này, Đại Tướng Cao Văn Viên đã kể lại với ông rằng ông Thiệu nói "lý do thứ nhất ông từ chức là vì Quân đội đã đưa ông lên ghế tổng thống năm 1967 thì bây giờ ông sẽ làm vừa lòng quân đội vì quân đội định đảo chánh. Lý do thứ hai là ông ta ra đi để Hoa Kỳ viện trợ lại cho Việt Nam Cộng Hòa". Ông Thiệu không nói rõ tên người nào dự định đảo chánh nhưng theo lời tướng Trần Văn Đôn thì lúc đó ai cũng nghi đó là ông ta, tuy nhiên ông minh xác rằng "sự thật không đúng như vậy". Ông Thiệu cũng cho mọi người biết rằng ông sẽ trao quyền lại cho Phó Tổng thống Trần Văn Hương như hiến pháp đã quy định và Phó Tổng thống Trần Văn Hương đã nhận lời. Chiều ngày 21 tháng 4 năm 1975, đài phát thanh Sài gòn liên tiếp đọc thông cáo khẩn cấp của Phủ Tổng thống mời tất cả các vị nghị sĩ và dân biểu, các thẩm phán trong Tối Cao Pháp viện và các vị giám sát trong Giám sát Viện đến Dinh Độc lập dự phiên họp đặc biệt vào tối hôm đó, tuy nhiên thông cáo không nói rõ lý do của phiên họp này. Đúng 7 giờ rưỡi tối hôm đó, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đã nói chuyện với đại diện cả ba ngành lập pháp, hành pháp và tư pháp cùng với toàn thể quốc dân đồng bào trong gần hai tiếng đồng hồ và được trực tiếp truyền thanh và truyền hình trên toàn quốc. Tổng thống Thiệu trình bày các diễn tiến từ Hiệp định Paris 1973 đến việc Cộng sản leo thang chiến tranh năm 1974, việc Cộng sản chiếm tỉnh Phước Long mà không gặp phản ứng nào từ phía Hoa Kỳ để rồi từ đó tấn chiếm Ban Mê Thuột mở đầu cho sự thất thủ miền Cao nguyên, miền Trung và miền Duyên hải. Ông Thiệu lên án đồng minh Hoa Kỳ không giữ lời hứa tiếp tục viện trợ cho VNCH và ông nói rằng "từ chối giúp đỡ cho một nước đồng minh, bỏ rơi một nước đồng minh như vậy là một điều vô nhân đạo". Ông Thiệu nói thêm rằng "người Mỹ thường hãnh diện họ là những kẻ vô địch bảo vệ cho chính nghĩa và lý tưởng tự do trên thế giới và sang năm tới (1976) họ sẽ ăn mừng lễ kỷ niệm 200 năm lập quốc, liệu người ta còn có thể tin tưởng vào những lời tuyên bố của người Mỹ hay không?". Quay sang tình hình quốc nội, ông Thiệu nói rằng "tại một vài nơi, quân đội chúng ta đã chiến đấu rất dũng cảm nhưng tôi cũng phải nhìn nhận rằng có một vài cấp lãnh đạo quân đội, không phải tất cả, đã tỏ ra hèn nhát. Tôi có thể tiếp tục nhiệm vụ tổng thống để lãnh đạo công cuộc kháng chiến tuy nhiên tôi không còn có thể cung cấp vũ khí đạn dược (vì người Mỹ đã cúp viện trợ) để cho quân đội tiếp tục công cuộc chiến đấu. Nhân dân có thể ghét tôi và họ cho rằng tôi sẽ là một chướng ngại vật cho hòa bình và do đó tôi chỉ còn một giải pháp duy nhất, đó là từ chức". Ông Thiệu nói rằng ông từ chức không phải vì áp lực của đồng minh, cũng không phải vì những khó khăn về quân sự do Cộng sản gây nên. Ông nói rằng các nhà lãnh đạo một số cường quốc trên thế giới thường tự hào là họ đã vượt qua được sáu, bảy hay mười cơn khủng hoảng và sau này đã viết hồi ký tự đề cao mình như những bậc anh hùng, như những chính khách vô cùng lỗi lạc, nhưng trong 10 năm lãnh đạo miền Nam Việt Nam, từng năm, từng tháng, từng giờ ông Thiệu đã phải đương đầu với mọi khó khăn như lá số tử vi của ông đã nói rõ. Ông Thiệu kết luận rằng "tôi sẵn sàng nhận lãnh sự phán xét và buộc tội của đồng bào nhưng sự sống còn của cả một dân tộc không có thể được mang ra mặc cả như con cá ở ngoài chợ. Tôi từ chức nhưng tôi không đào ngũ". Sau đó ngừng vài giây đồng hồ, ông Thiệu nói tiếp "theo hiến pháp, người thay thế tôi là Phó Tổng thống Trần Văn Hương".
          Sau khi dứt lời, ông Nguyễn Văn Thiệu bước xuống mời Phó Tổng Thống Trần Văn Hương lên làm lễ tuyên thệ nhậm chức. Trong bài diễn văn ngắn ngủi, tân Tổng thống Trần Văn Hương nhắn nhủ với quân đội "chừng nào các anh em còn tiếp tục chiến đấu, bao giờ tôi cũng sẽ đứng bên cạnh các anh em. Đất nước chúng ta đang rơi vào cơn thảm họa nhưng ước vọng quý giá nhất đời của tôi là sẽ được đóng góp xương máu và chia xẻ mọi gian nguy của các anh em ở chiến trường. Đoàn kết là sống, chia rẽ là chết". Sau đó cựu tổng thống Nguyễn Văn Thiệu ngồi vào ghế của Phó Tổng thống và tân tổng thống ngồi vào ghế của tổng thống Thiệu trước đó để nghe Đại tướng Cao Văn Viên đọc nhật lệnh cho quân đội tiếp tục nhiệm vụ chiến đấu và Thiếu tướng Nguyễn Khắc Bình kêu gọi các lực lượng Cảnh sát tiếp tục nhiệm vụ duy trì an ninh trật tự trên toàn quốc. Trong khi lễ bàn giao đang diễn ra tại Dinh Độc lập, các đơn vị cuối cùng còn lại của Sư đoàn 18 bắt đầu di tản ra khỏi thị trấn Xuân Lộc sau khi đã chiến đấu vô cùng anh dũng chống lại một lực lượng quân chính quy Bắc Việt đông gấp năm lần trong hơn hai tuần lễ. Khi Cụ Trần Văn Hương nhậm chức tổng thống thì quân Cộng sản đã tiến về tới Biên Hòa và bộ máy của cơ quan tình báo Mỹ CIA cùng tình báo của Pháp cũng như Đại sứ Pháp là Jean-Marie Mérillon đã bắt đầu hoạt động ráo riết để đưa cựu Đại tướng Dương Văn Minh lên thay thế ông Hương.
          Ngày Thứ Ba, 22/4/1975 Theo Oliver Todd trong Cruel Avril thì vào ngày 22 tháng 4 năm 1975, Lê Duẫn nhân danh Bộ Chính Trị của Đảng Cộng sản Bắc Việt đã đánh điện cho Lê Đức Thọ và Văn Tiến Dũng đang đặt bản doanh tại Lộc Ninh, ra lệnh "phải gia tăng các cuộc tấn công và đánh mạnh đánh mau trên khắp mọi mặt, mọi hướng. Bức điện văn của Lê Duẫn kết luận rằng " tấn công chậm đi một ngày nào thì sẽ đưa đến những hậu quả vô cùng nghiêm trọng trên cả hai phương diện quân sự cũng như về chính trị."[1] Theo nhận định của Oliver Todd thì dường như ông Tổng Bí Thư Đảng Cộng sản Bắc Việt Lê Duẫn sợ rằng nếu tình hình chiến sự cứ kéo dài thì trong thời gian này có thể sẽ có những sự can thiệp của quốc tế như hồi năm 1954 khiến cho Việt Cộng đã phải chấp nhận một giải pháp chia cắt ở vĩ tuyến thứ 17 thay vì một chiến thắng toàn diện. Tuân lệnh của Bộ Chính Trị, với tư cách là Tổng Tư Lệnh Chiến trường Miền Nam, Văn Tiến Dũng đã ban lệnh cho tất cả các đơn vị của Cộng sản Bắc Việt từ các Chiến khu C, Chiến khu D, Khu Tam giác Sắt ở Miền Đông, cũng như các đơn vị ở vùng đồng bằng sông Cửu Long và vùng Cà Mau phải khởi sự chuẩn bị tổng tấn công vào Sài Gòn và các tỉnh. Như vậy, ngay sau khi TT Nguyễn Văn Thiệu từ chức, Cộng sản Bắc Việt không hề có ý định thương thuyết với bất cứ người nào, bất cứ phe phái nào tại Miền Nam vì mục tiêu tối hậu của Bắc Việt là cưỡng chiếm toàn bộ Miền Nam bằng võ lực mà thôi. Trong khi đó thì tân Tổng Thống Trần Văn Hương lại phải đương đầu với những áp lực chính trị và ngoại giao nhằm thúc đẩy ông trao quyền lại cho Dương Văn Minh vì họ nghĩ rằng Dương Văn Minh có đủ điều kiện để thương thuyết với Cộng sản Bắc Việt. Ngoài đại diện của CIA là tướng hồi hưu Charles Timmes đến gặp Đại tướng Dương Văn Minh sáng ngày 21/4, tối hôm đó, sau khi tân Tổng thống Trần Văn Hương nhận chức , Pierre Brochand, đệ nhị cố vấn và trưởng ngành tình báo tại tòa đại sứ Pháp đã có mặt tại tư gia của ông Minh, cũng được báo chí Việt Nam hồi đó đặt tên là "Dinh Hoa lan" ở đường Hồng Thập Tự bên hông Dinh Độc Lập, để hướng dẫn, khuyến khích và nhất là giúp ông Minh chống lại những nổ lực chống phá ông ta lên nắm chính quyền một khi Cụ Hương bị áp lực phải từ chức. Trong ngày hôm đó, Đại sứ Pháp Mérillon đã vào Dinh Độc Lập đến hai lần để thuyết phục TT Trần Văn Hương từ chức. Đại sứ Hoa Kỳ Graham Martin thì chủ trương phải giữ khuôn mặt hợp hiến, hợp pháp của chính quyền VNCH và do đó ủng hộ sự duy trì vai trò tổng thống của cụ Trần Văn Hương, ít ra là cũng trong một thời gian ngắn. Tối 22 tháng 4, Đại sứ Graham Martin thảo một bức điện văn dài gởi cho Ngoại trưởng Henry Kissinger trong đó ông Đại sứ đã phúc trình những điểm chính như sau: -Ông Trần Văn Đôn, Tổng trưởng Quốc Phòng, trước đây đã nói với Đại sứ Martin rằng sau khi ông Thiệu từ chức thì ông ta sẽ là người toàn hảo để đóng vai trò thủ tướng. Tuy nhiên trong ngày hôm nay thì ông Đôn lại nói với đại sứ Martin rằng người mà Hà Nội mong muốn sẽ đại diện cho Miền Nam để thương thuyết là Dương Văn Minh, dĩ nhiên là phải có Trần Văn Đôn trong vai trò cố vấn. Theo ông Đôn thì phe Phật giáo, phe Thiên Chúa giáo và các giáo phái khác đều sẵn sàng ủng hộ giải pháp này. Ông Đôn hỏi Đại sứ Martin nghĩ sao về giải pháp này thì Đại sứ Mỹ trả lời rằng ông không có một quyền hạn nào để ủng hộ hay là phản đối giải pháp này vì đây không phải là một vấn đề của người Mỹ mà lại là vấùn đề của người Việt Nam. Ông Martin đã đề nghị với ông Tổng trưởng Quốc Phòng Trần Văn Đôn là ông ta nên gặp và thảo luận với người Pháp. -Đại sứ Martin cũng phúc trình với Ngoại trưởng Kissinger rằng ông đã gặp Đại sứ Pháp Mérillon sau khi ông này hội kiến với TT Trần Văn Hương. Đại sứ Mérillon xác nhận rằng Bộ Ngoại giao Pháp đang gây áp lực để thúc đẩy cho giải pháp Dương Văn Minh, tuy nhiên ông Trần Văn Hương phản ứng rất là chậm chạp, có lẽ vì già yếu và bệnh hoạn. Đại sứ Marrtin hỏi ĐS Mérillon rằng có dấu hiệu nào cho thấy Hà Nội có thể sẽ chấp nhận nói chuyện với Dương Văn Minh hay không thì ông Mérillon không trả lời thẳng cho câu hỏi này. ĐS Martin nói ông nghĩ rằng người Pháp đã đề nghị với Hà Nội về giải pháp Dương Văn Minh nhưng Hà Nội chưa trả lời và người Pháp nghĩ rằng Hà Nội đã mặc thị đồng ý. Người Pháp cũng nghĩ rằng nếu có thể đưa ông Minh lên nắm chính quyền ngay thì sau đó sẽ là một sự đã rồi và Hà Nội sẽ khó mà phản đối. -ĐS Martin nói rằng Thủ Tướng Nguyễn Bá Cẩn đã được TT Trần văn Hương yêu cầu ngồi lại xử lý thường vụ, tuy nhiên ông Cẩn thì muốn ra đi. ĐS Martin cho biết ông đã nói thẳng với những người muốn ra đi rằng tòa đại sứ Mỹ không có sẵn phi cơ , phải đến cuối tuần (26-27 tháng 4) mới có. Ngoài ra, ĐT Dương Văn Minh cũng có cho Tướng Timmes hay rằng một số sĩ quan người Bắc thuộc phe Tướng Kỳ đang chuẩn bị để chống lại ông Minh, ông Đại sứ đã cử người đến gặp ông Kỳ và nói với ông ta rằng người Mỹ muốn tình hình tại Sài Gòn phải yên tĩnh cho đến cuối tuần tức là ngày thứ bảy chủ nhật 26/27 tháng 4. -Đại sứ Martin cũng phúc trình thêm rằng Đại sứ Mérillon đã vào Dinh Độc Lập lần thứ hai trong ngày để gặp TT Trần văn Hương vào lúc 4 giờ chiều nhưng không đạt được kết quả nào. Ông Mérillon đã yêu cầu ông đại sứ Mỹ nên thúc đẩy để TT Hương từ chức. Sau đó, TT Hương đã mời ông ĐS Martin vào gặp ông vào lúc 5 giờ chiều và đã nói chuyện với ông Martin với tư cách như là bạn bè. TT Hương hỏi ý kiến ông Martin về Dương Văn Minh nhưng ông đại sứ Mỹ nói rằng ông chưa hề có dịp gặp ông Minh, chỉ nghe nói nhiều về những tham vọng của ông này mà thôi. Đ.S. Martin nói với TT Trần Văn Hương rằng nhóm "lực lượng thứ ba" cũng như là một vài tướng lãnh có thể ủng hộ ông Minh và ông Hương có vẻ đồng ý với ông đại sứ. Vấn đề quan trọng là liệu Cộng sản có chấp nhận nói chuyện với ông Minh hay không và TT Trần Văn Hương đề nghị Đại sứ Martin nên thăm dò với ông đại sứ Ba Lan trong Ủy Ban Quốc Tế Kiểm Soát Đình Chiến về vấn đề này. ĐS Martin cho biết là trong cuộc hội kiến này, TT Hương cho thấy ông ta rất bình tĩnh, có lúc ông ta quay sang nói chuyện thi ca với ông Brunson McKinley, thông dịch viên tiếng Pháp của Đại sứ Martin. Tổng thống Trần văn Hương cũng có tâm sự với ông Martin rằng: "nếu tôi phải làm Pétain của Việt Nam thì ít ra tôi cũng sẽ phải đóng vai trò đó trong danh dự và đúng với phẩm giá."(Si je dois être le Pétain du Vietnam, je le serai au moins dans l'honneur et la dignité).[10] - Đại sứ Martin phúc trình với Ngoại Trưởng Kissinger rằng sau khi từ giã TT Hương, ông đã mời đại sứ Ba Lan đến nói chuyện vào lúc 8 giờ tối ngày 22-4-1975. Ông Martin nhận xét rằng ông đại sứ Ba Lan là một đảng viên Cộng sản cứng rắn nhưng đồng thời cũng là một nhà ngoại giao chuyên nghiệp. Đại sứ Martin nói với ông đại sứ Ba Lan về mối ưu tư của TT Trần văn Hương và nhờ ông ta thăm dò với Hà Nội thử xem họ có chấp nhận vai trò của Dương Văn Minh hay không. Đại sứ Ba Lan là người thận trọng và ông ta trả lời rằng ông ta sẽ xin phép chính phủ Ba Lan để xúc tiến việc này. Đại sứ Martin nói rằng ông không tin ông đại sứ Ba Lan sẽ trả lời cho ông ngay trong ngày hôm sau.
          Kế Hoạch Mérillon Tại Paris, Tổng Thống Pháp Giscard d'Estaing tin rằng Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời Miền Nam Việt Nam của Việt Cộng có thể có hy vọng đóng một vai trò nào đó trong tình hình chính trị tại Việt Nam và do đó cần phải duy trì sự hiện diện của ngưới Pháp tại Miền Nam. TT Giscard d'Estaing cho mời Nghị sĩ Paul d'Ornano, đại diện Pháp Quốc hải ngoại đến phủ tổng thống. Nghị sĩ Paul d'Ornano vốn trước kia là chủ đồn điền tại Đông Dương và ông ta dự định sang viếng thăm Việt Nam, do đó tổng thống Pháp đã yêu cầu nghị sĩ d'Ornano kêu gọi Pháp kiều nên ở lại Việt Nam, đừng có bỏ chạy và TT d'Estaing cũng sẽ ra lệnh cho các viên chức người Pháp cũng phải ở lại. TT Giscard d'Estaing cũng liên lạc trực tiếp nhiều lần bằng điện thoại với đại sứ Mérillon tại Sài Gòn để chỉ thị cho tòa đại sứ Pháp xúc tiến kế hoạch thành lập một chính phủ liên hiệp giữa phe Mặt Trận Giải Phóng với những thành phần không Cộng sản tại Sài Gòn càng sớm càng tốt để thương thuyết với Cộng sản Bắc Việt. Về phía đại sứ Pháp tại Sài Gòn, ông Mérillon chủ trương thành lập một Miền Nam Việt Nam trung lập với đại diện của phe Mặt trận Giải phóng Miền Nam, phe quốc gia và phe "hòa giải hòa hợp" của Dương Văn Minh. Trong cuốn hồi ký sau này, ông tiết lộ rằng Trung Cộng đã ủng hộ giải pháp này của người Pháp. Ông cho biết thủ tướng Trung Cộng Chu Ân Lai đã đánh điện cho Bộ Ngoại giao Pháp là Trung Cộng sẵn sàng hợp tác với Pháp để "xây dựng một chính thể trung lập tại miền Nam nếu có thành phần MTGPMN tham dự". Đại sứ Mérillon cũng cho biết hầu hết các quốc gia Á châu, ngoại trừ Nam Dương, đều ủng hộ việc thành lập một nước Việt Nam đình chiến trong trung lập hơn là một nước Việt Nam thống nhất dưới quyền cai trị của Hà Nội. Đại sứ Mérillon cho biết sở dĩ Nam Dương chống lại giải pháp trung lập này vì Nam Dương hận Trung Cộng đã đạo diễn vụ đảo chánh hụt tại quốc gia này năm 1965 nhưng ông tiết lộ rằng năm 1978, Tổng thống Nam Dương Suharto có gửi cho ông một bức thư bày tỏ sự hối tiếc là vào năm 1975 chính phủ Nam Dương đã có nhận xét sai lầm về tình hình chính trị tại Đông Dương và đã không ủng hộ kế hoạch của đại sứ Pháp tại Sài gòn. Theo Đại sứ Mérillon thì Chu Ân Lai đã đưa ra một danh sách gồm có Trương Như Tảng, Nguyễn Thị Bình, Đinh Bá Thi, Thiếu tướng Lê Quang Ba và Trung tướng Trần Văn Trà làm nòng cốt cho thành phần thân Trung Cộng trong chính phủ trung lập tại miền Nam để chống lại phe thân Nga do Lê Duẩn cầm đầu tại Hà Nội. Đại sứ Mérillon nói rằng Trung Cộng "tha thiết muốn cứu sống Mặt trận Giải phóng Miền Nam để xây dựng ảnh hưởng của họ tại Đông Dương" và phe quốc gia thì cũng muốn cứu miền Nam không để cho rơi vào tay Cộng sản Hà nội, như vậy thì cả hai quan niệm này đều cùng có một mục đích và còn có thể dàn xếp được. Sáng ngày 22 tháng 4, Đại sứ Mérillon mời Dương Văn Minh đến tòa đại sứ Pháp ở đường Hồng Thập Tự để thảo luận về giải pháp trung lập. Đại tướng Minh đến gặp đại sứ Pháp cùng với một phái đoàn đông đảo gồm có nghị sĩ Vũ Văn Mẫu và, theo lời của ông Mérillon, "nhiều nhân vật đang tập sự làm chính trị, những kẻ chuyên sống nhờ xác chết đồng bào họ" như Huỳnh Tấn Mẫm, bà Ngô Bá Thành, Ni sư Huỳnh Liên, Lý Quý Chung, Hồ Ngọc Cứ v.v. Đại sứ Mérillon nhận xét rằng "tôi thấy ông Minh đã liên lạc quá vội với một thành phần vô ích. Những khuôn mặt này, Bắc Việt chưa biết đến họ, còn công lao của họ đối với Bắc Việt thì cũng chỉ có việc chửi tầm bậy chế độ Việt Nam Cộng Hòa mà thôi". Đại sứ Mérillon nói rằng "Huỳnh Tấn Mẫm và Ni sư Huỳnh Liên ai cũng thao thao bất tuyệt ca tụng hòa bình, ca tụng Cộng sản vì đã đánh hơi kẻ thắng là ai rồi. Riêng Nghị sĩ Vũ Văn Mẫu thì có vẻ già dặn hơn, ông đặt chữ "nếu" ở mỗi mệnh đề, chẳng hạn như ông nói "nếu chính phủ tương lai mà do ông làm thủ tướng thì viễn ảnh hòa bình sẽ nằm trong tầm tay của dân tộc Việt Nam". Tôi nói với họ rằng "không ai có thể chối cải được công lao của quý vị trong thiện chí nổ lực thành lập tân chính phủ, tuy nhiên thẩm quyền tối hậu giờ phút này nằm trong tay Hà nội, nước Pháp chỉ làm một việc có tính cách trung gian chứ không đóng vai trò chủ động". Đại sứ Mérillon nói rằng sau đó ông đã lể phép mời mọi người ra về chỉ giữ Tướng Minh ơ lại. Trước khi ra về, ông Mẫu có nói nhỏ riêng với đại sứ Pháp bằng tiếng La-tinh, có le vì ông không muốn những người khác nghe), rằng ông ta muốn được đi Pháp nếu chính phủ của ông không được Hà nội nhìn nhận. Đại sứ Mérillon nói khi ông trở vào thì Đại tướng Dương Văn Minh ngồi chờ với "nét mặt sung mãn, tự hào như kẻ đang nắm vững thời cuộc" và ông đã mời ông Minh dùng cơm trưa để cùng bàn luận. Theo kế hoạch của đại sứ Mérillon thì ông Minh sẽ đứng ra thành lập chính phủ với hai thành phần đồng đều: phe hòa giải hòa hợp của ông cùng với phe MTGP và trong vòng 24 tiếng đồng hồ, nước Pháp sẽ vận động các nước Âu châu, Á châu cùng các nước phi liên kết thừa nhận tân chính phủ Việt Nam và như vậy thì có thể làm chậm lại đà tiến quân của Cộng sản Bắc Việt. Sau đó, ông Minh sẽ cố gắng chỉnh đốn lại hàng ngũ quân đội để mặc cả thế đứng cho phe quốc gia. Tân chính phủ của ông Minh và MTGP sẽ tuyên bố sẵn sàng thiết lập bang giao với Trung Cộng và các nước Xã hội Chủ nghĩa kể cả Liên Xô. Trung Quốc đã có liên lạc với Pháp sẽ cử ngay đại sứ đến Sài gòn trong vòng 24 tiếng đồng hồ và sẽ viện trợ cho chính phủ Sài gòn 420 triệu mỹ kim là số tiền mà họ hứa hẹn sẽ viện trợ cho Hà nội. Sau đó, với sự sắp xếp của Pháp và áp lực của Trung Cộng, tân chính phủ sẽ đòi hỏi Hà Nội phải thi hành Hiệp định Paris 1973. Đại sứ Mérillon cho ông Minh biết nước Pháp sẽ viện trợ cho tân chính phủ khoảng 300 triệu đồng Francs và đồng thời cũng sẽ vận động với các quốc gia Âu châu khác một ngân khoản độ 290 triệu mỹ kim nữa qua các chương trình viện trợ kinh tế, văn hóa, phát triển kinh tế và nhân đạo. Như vậy thì tổng số tiền viện trợ quốc tế cho Miền Nam Việt Nam cũng không kém viện trợ của Hoa Kỳ trước đây là bao nhiêu và chính phủ trung lập có thể tồn tại được. Đại sứ Pháp cũng cho biết rằng Nguyễn Thị Bình từ đầu đến cuối đã hợp tác chặt chẻ với người Pháp, bằng chứng là sau này, 17 ngày sau khi CSBV cưỡng chiếm Miền Nam, bà ta đã tuyên bố tại Liên Hiệp Quốc là "miền Nam Việt Nam sẽ ở trong tình trạng trung lập trong vòng 5 năm trước khi tiến tới việc thống nhất vơi ù miền Bắc" và có lẽ đây là một trong những lý do khiến cho bà ta bị thất sủng sau này. Đại tướng Dương Văn Minh ngồi yên nghe đại sứ Merillon trình bày kế hoạch của Pháp và nói với đại sứ Mérillon rằng ông ta sẵn sàng thực hiện mọi điều trong kế hoạch này, ông chỉ nêu lên một câu hỏi duy nhất sau đây: "thưa ông Đại sứ, dưới hình thức nào tôi sẽ thay thế ông Trần Văn Hương để thành lập nội các mới thương thuyết với phía bên kia?". Ông Mérillon trả lời rằng: "thưa Đại tướng, hôm qua tôi có thảo luận với Cụ Trần Văn Hương và cụ đã đồng ý rằng sẽ trao quyền cho Đại tướng nếu Đại tướng có kế hoạch nào không để mất Sài gòn". Sự thật thì tân TT Trần Văn Hương sau khi nhận chức đã không hề nghĩ đến việc mời cựu Đại tướng Dương Văn Minh vào giữ chức vụ này. Quan niệm của vị tân tổng thống 71 tuổi này là phải tiếp tục chiến đấu để bảo vệ phần còn lại của miền Nam và nếu có thương thuyết thì ít ra cũng phải ở trong một tư thế ngang hàng với đối phương. Đại sứ Mérillon cho biết rằng "khi chúng tôi giới thiệu tướng Minh sẽ là nhân vật cho ván bài trung lập của Pháp tại Việt Nam, Cụ Trần Văn Hương sửng sốt và tỏ lời phiền trách: "Nước Pháp luôn luôn bẻ nho trái mùa! Tưởng chọn ai chớ chọn Dương Văn Minh! Nó là học trò tôi, tôi biết nó quá mà! Nó không phải là hạng người dùng được trong lúc dầu sôi lửa bỏng. Tôi sẽ trao quyền lãnh đạo cho nó nhưng nó phải hứa với tôi là đừng để Sài Gòn thua Cộng sản" Theo hồi ký của Đại sứ Mérillon thì "chúng tôi giải thích với cụ là Bắc Việt rất sợ Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam đoạt phần chiến thắng, công khai ra mặt nắm chính quyền. Chúng ta nên nắm ngay nhược điểm của họ mà xoay chuyển tình thế. Nếu để một nhân vật diều hâu lãnh đạo, Bắc Việt sẽ viện cái cớ Việt Nam Cộng Hòa không muốn hòa bình rồi thúc quân đánh mạnh trong lúc quân đội VNCH chưa kịp vãn hồi tư thế phản công. Tạm thời dùng công thức hòa hoãn mà thôi. "Cụ Trần Văn Hương thông cảm, nhưng lại thở dài và kèm theo những lời tỏ ra mất tin tưởng. Kế hoạch của chúng tôi vô tình đè bẹp tinh thần chống Cộng sắt đá của Cụ. Cụ Trần Văn Hương chủ trương nếu cần thì cứ bỏ ngỏ thành phố Sài gòn, rút lực lượng về miền Tây rồi tổng động viên nhân lực, vật lực còn lại để tiếp tục chiến đấu chống lại Cộng sản. Giải pháp này thì sẽ tiếp tục đổ máu nhưng ít ra thì Việt Nam Cộng Hòa cũng không thua một cách quá mất mặt." Mười năm sau, Đại sứ Mérillon đã viết trong hồi ký của ông rằng "bây giờ tôi mới thấy kế hoạch của Cụ Hương là đúng, nếu lúc đó các nhà lãnh đạo quân sự miền Nam đừng bỏ chạy quá sớm, ở lại yểm trợ cho Cụ thì có thể gỡ gạc được phần nào thể diện cho người quốc gia Miền Nam "Chúng tôi vẫn nhớ lời Cụ nói vào năm 1975: "Ông Đại sứ à, Tôi đâu có ngán Việt Cộng. Nó muốn đánh, tôi đánh tới cùng. Tôi chỉ sợ mất nước, sống lưu đày ở xứ người ta. Nếu trời hại, nước tôi mất, tôi xin thề sẽ ở lại đây và mất theo nước mình."[11]. Ngay sau khi Cụ Trần Văn Hương nhận chức Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa, trong ngày 22/4, Trung Tướng Nguyễn Văn Toàn, Tư Lệnh Quân Đoàn 3 đã yêu cầu Đại Tướng Cao Văn Viên xin với Hoa Kỳ yểm trợ cho Vùng 3 một phi vụ B-52 dôi bom xuống khu vực chung quanh Xuân Lộc, nhưng Đại tướng Viên biết rõ người Mỹ không thể nào đáp ứng được điều đó cho nên ông từ chối. Tuy nhiên trước đó mấy tuần, Đại Tướng Frederick Weyand và Phụ tá Bộ Trưởng Quốc Phòng Hoa Kỳ Von Marbod đã xoay xở đưa sang Việt Nam mấy trái bom CBU-55. Loại bom này còn được gọi là "bom dầu" (fuel bomb), loại bom có sức công phá và sát hại mạnh nhất trong các loại vũ khí của Mỹ. Sau khi được thả xuống, bom sẽ nổ tung ra hàng trăm trái bom nhỏ khác tạo thành một bức màn như dầu hỏa có chiều rộng khoảng 17 mét và bề dầy chiều 3 mét là đà trên mặt đất rồi sau đó sẽ nổ tung, gây ra một áp xuất khoảng 300 cân Anh/một inch vuông (300 pounds per square inch) và hút hết khối lượng oxygen ở dưới đất, ở trong buồng phổi của tất cả mọi sinh vật, dù là ở dưới hầm sâu cũng không thở được. 13 ngày sau khi đã anh dũng chống lại nhiều đợt tấn công của quân Cộng Sản Bắc Việt, các đơn vị cuối cùng của Sư Đoàn 18 đã rút khỏi Xuân Lộc ngày 22 tháng 4. Các nhà báo ngoại quốc đã khen ngợi cuộc rút quân này là đã "được hoạch định và thi hành rất hay" và khi các đơn vị này về đến Biên Hòa thì chỉ bị thiệt hại chừng 30 phần trăm quân số sau hai tuần giao tranh với một lực lượng địch đông gấp bốn năm lần. Bộ Tổng Tham Mưu đề nghị lên tân Tổng Thống Trần Văn Hương xin sử dụng loại bom này ở Xuân Lộc để ngăn chận sức tiến quân của Cộng sản Bắc Việt và chính TT Trần Văn Hương đã ra lệnh cho Không quân VNCH thả những trái bom này. Với sự trợ giúp về kỹ thuật của các chuyên viên thuộc DAO (Văn Phòng Tùy Viên Quân sự Hoa Kỳ), Không quân VNCH đã gắn loại bom này lên một chiếc phi cơ vận tãi C-130 xuất phát từ căn cứ Không quân Tân Sơn Nhất bay lên thả xuống vùng Xuân Lộc, nơi mà các đơn vị cuối cùng của Sư đoàn 18 vừa mới triệt thoái tối hôm trước. Trái bom CBU-55 này được thả xuống ngay trên đầu bộ tư lệnh của Sư đoàn 341 của CSBV lúc đó đang trú đóng ở 6 cây số về phía tây-bắc thành phố Xuân Lộc khiến cho cả ba bốn trăm bộ đội Bắc Việt bị tử thương. Đài phát thanh Hà Nội ngay sau đó đã la lối tố cáo rằng Hoa Kỳ và VNCH đã sử dụng loại vũ khí hoá-vi-quang (Chemical-Biological-Radiological weapons) một cách bất hợp pháp. Trung Hoa Cộng sản cũng tiếp tay Hà Nội lên án Hoa Kỳ vô cùng mạnh mẽ về việc đã sử dụng loại vũ khí giết người ghê gớm này. Theo Frank Snepp thì dù có sự phản đối mạnh mẽ nói trên, Không quân Hoa Kỳ cũng có trợ giúp bằng cách dùng phi cơ thả xuống vùng do Cộng sản kiểm soát quanh thị trấn Xuân Lộc hàng chục trái bom "daisy cutters", tên thông dụng của loại bom BLU-82, tức là loại bom dùng để khai quang bãi đáp cho trực thăng nặng khoảng 15,000 cân Anh tức là khoảng 7 tấn rưỡi cùng với hàng loạt bom 500 cân Anh gây ra nhiều thiệt hại nặng nề cho Cộng quân. (Sau 1975, Cộng sản tìm được 3 trái bom BLU-82 chưa sử dụng và cho triển lãm tại Sài gòn). Chính tân Tổng thống Trần Văn Hương là người đã ra lệnh cho Không quân VNCH thả những trái bom hạng nặng này xuống đầu quân CSBV tại vùng Xuân Lộc. Frank Snepp nói rằng có một số phi cơ của Hoa Kỳ đã được sử dụng để thả một loại hỏa tiễn rất tối tân tên là Wild Weasel (Con Chồn Hoang) để tấn công các đơn vị hỏa tiễn phòng không lưu động của Cộng sản Bắc Việt đang hoạt động trong vùng đông-bắc Vùng 3 Chiến Thuật. Văn phòng CIA Sài gòn không hề được thông báo về việc này và Tòa Bạch Ốc cũng không muốn cho ai hay biết gì về việc phi cơ của Không lực Hoa Kỳ lại đã được sử dụng tại chiến trường Miền Nam Việt Nam trong mấy ngày cuối tháng 4 năm 1975 này.[12]

CHÚ THÍCH
[7] Mạn đàm qua điện thoại với cựu Thủ Tướng Nguyễn Bá Cẩn tại San Jose, California, ngày 06-05-2002
[8] Frank Snepp:"Decent Interval", Vintage Books, New York 1978,, trang 395
[9] Oliver Todd: sđd, trang 319
[10] Oliver Todd: sđd, trang 324
[11] Jean Marie Mérillon: "Saigon Et Moi", Paris, 1985
[12] Frank Snepp: sđd, trang 417



Trở Về Trang Tài Liệu Không Quân Orlando